Warning: Parameter 2 to _filter_fw_ext_sidebars_title_like_posts_where() expected to be a reference, value given in /home/u929267202/domains/tapchidantri.org/public_html/wp-includes/class-wp-hook.php on line 324
- Version
- Download 146
- File Size 5.00 MB
- File Count 1
- Create Date 06/03/2025
- Last Updated 06/03/2025
VỀ TỰ DO
Khái niệm tự do được tranh cãi từ thời cổ đến nay. Khái niện tự do phủ định (negative freedom hay liberty) và tự do khẳng định (positive liberty) được Isaih Berlin đưa ra 1958. Theo Berlin khái niệm tự do trước ông về cơ bản là tự do phủ định, tự do khỏi, tức là phải dỡ bỏ những sự can thiệp, các rào cản, các chướng ngại (từ bên ngoài, từ cộng đồng,…,nhất là từ Nhà nước) để con người có được tự do. Cách hiểu này đã trở nên chi phối ở Mỹ, và chủ yếu các chướng ngại, các rào cản là do nhà nước tạo ra, cho nên phải thu hẹp nhà nước càng nhiều càng tốt (Bộ Hiệu Quả do Elon Musk điều hành trong chính quyền Trump 2.0 là tiêu biểu cho các nỗ lực này). Cách hiểu này về tự do chiếm ưu thế, phổ biến ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Đã có nhiều tranh cãi về hai khái niệm tự do này. Nhiều người đã chỉ ra những cách hiểu tự do kinh điển đã không hoàn toàn là tự do phủ định.
Snyder hiểu tự do là năng lực của con người để trở thành người tự do; là năng lực của con người để chọn, kết hợp các giá trị của một người để thực hiện một vài giá trị được chọn đó trong đời thường. Như thế theo Snyder, tự do là tự do khẳng định, là giá trị của các giá trị và kịch liệt phê phán cách hiểu thịnh hành của tự do như tự do phủ định ở Mỹ hiện nay.
tự do, quyền tự do
Snyder coi tự do phủ định chỉ là điều kiện cần cho tự do. Sau khi dỡ bỏ các rào cản, thì sao, người ta có tự do không? Đấy là một câu hỏi quan trọng và ông thuyết phục bạn đọc rằng chưa, và cần thực hiện tự do khẳng định.
Như thế có thể xem Tự do như một khái niệm trên tầng tư duy trừu tượng; năm hình thức của tự do kết nối (hay cụ thể hóa) quan niệm tự do trên bình diện tư duy trừu tượng với việc thực hiện tự do trên thế giới trần tục hàng ngày.
Năm hình thức tự do đó là:
- Tự chủ (sovereignty) theo nghĩa rằng không có những con người tự chủ thì quan niệm về tự do là vô nghĩa. Điều đó có nghĩa là ngay cả với những người trưởng thành mất chủ quyền là mất tự do. Tuy nhiên, Snyder để ý đến làm sao đứa trẻ sơ sinh, những người chưa trưởng thành (những người bị J. S. Mill bỏ qua) có thể trở thành người có chủ quyền. Để là tự chủ là để nghĩ và hành động có trách nhiệm. Để là những con người tự chủ là có những năng lực (như đặt tên các cảm xúc và sự tự-kiểm soát) mà chúng ta cần để là những người tự do. Cần thời gian và những cố gắng xã hội, các định chế xã hội và các chính sách xã hội cho mọi người (nhất là cho các trẻ sơ sinh) để học để trở thành những con người tự chủ. “Các năng lực, mà mọi người cần nhằm để hoạt động như những người lớn, phát triển khi chúng ta còn nhỏ. Các kỹ năng, mà chúng ta sẽ dùng để trở những con người độc nhất, được tạo ra trong thời gian 5 năm đầu tiên của cuộc đời, khi bộ óc phát triển gần như tới kích thước đầy đủ của nó. Khi các trẻ sơ sinh và những trẻ đi chập chững tương tác với những người khác, ý chí và tiếng nói và tư duy nổi lên.”… “Tự do như thế là một khoản vay được chi ra và được trả lại qua các thế hệ. Trẻ con cần sự chú ý nhiều và chu đáo trong 5 năm đầu đó. Thời gian đặc biệt này không thể được trẻ con trao cho trẻ con, cũng chẳng được người lớn trao cho người lớn. Trẻ con chỉ có thể vay loại đặc biệt này của thời gian từ những người lớn. Sự tự chủ hình thành phát triển ngay từ khi đứa trẻ chào đời với sự giúp đỡ của cha mẹ, gia đình và các định chế xã hội khác.
- Tính di động (mobility) là năng lực cho một người để di chuyển theo các giá trị của mình khi người đó lớn lên. Nói cách khác người ta di chuyển trong một không gian 5 chiều, 4 chiều không-thời gian và chiều thứ năm là chiều của các giá trị, chiều của các đức hạnh, chiều của cái nên là chứ không phải trong bốn-chiều của cái là. Tính di động trong không gian là dễ để hình dung nhưng nếu không có cơ sở hạ tầng thì tính di động trong không gian là khó, tức là, hình thức tự do này cũng phụ thuộc vào công việc của những người khác và các các thế hệ khác và vào các định chế và các chính sách (phát triển hạ tầng cơ sở, các công đoàn, hệ thống phúc lợi). Cũng đúng thế cho tính di động xã hội. Tính di động cũng có một chiều thời gian mà người ta cần có cảm giác nào đó về quá khứ và các tương lai mở mà mình sẽ chọn, nếu không sẽ còn tương lai nào nữa (như trong trường hợp thảm họa do biến đổi khíu hậu) thì tự do là vô nghĩa. Tính di động được phát triển cùng tính tự chủ, nhưng chỉ phát triển thật sự sau tính tự chủ (từ tuổi thiếu niên trở đi). Tính di động trong chiều thứ năm, chiều giá trị, chiều của thế giới đạo đức, của các đức hạnh, chiều của cái nên là, hay nói rộng hơn ở mức văn hóa là một đặc điểm khiến cho Leib khác với Körper. Cả hai từ tiếng Đức này được Snyder để nguyên văn và đều có nghĩa là thân thể, là cơ thể, nhưng Leib với hàm ý thân thể của người sống còn Körper có hàm ý thể xác tuân theo các quy luật vật lý. Leib có thể di chuyển trong chiều thứ năm còn Körper thì không.
- Tính không thể tiên đoán được (unpredictability), thoạt nhìn có thể hơi lạ rằng tính không thể tiên đoán được là một hình thức tự do, nhưng suy ra nó một cách rõ ràng từ định nghĩa tự do và các đặc tính của các giá trị. Thực ra, những kẻ chuyên quyền và các chính thể chuyên chế muốn mọi người có thể tiên đoán được hoàn toàn và media xã hội biến người dân thành có thể tiên đoán được hơn và vì thế có hại cho tự do (tuy media xã hội có những mặt rất hữu ích khác). Tính không thể tiên đoán được là một đức hạnh lớn của con người. Giả như chúng ta là hoàn toàn có thể tiên đoán được, thì chúng ta sẽ giống các máy và chúng ta không tự do. Sẽ không có sự đổi mới nào, sự sáng tạo thật sự nào nếu không có tính không thể tiên đoán được.
- Tính xác thực (factuality-sự phù hợp với dữ kiện, với thực tế), là cốt yếu cho các hình thức tự do khác. Không có tính xác thực chúng ta không có khả năng tiếp cận đến sự thật, sẽ không có khoa học. Không có sự thật tuyệt đối, chúng ta có thể tiếp cận đến sự thật chỉ qua tranh luận, lập luận, kiểm chứng các giả thuyết và bác bỏ các giả thuyết trên cơ sở của các dữ kiện (facts). Nói cách khác tìm sự thật tốn công sức và tiền bạc và các định chế (báo chí, làm phóng sự điều tra, khoa học,…). Không có tính xác thực chúng ta không thể hiểu thế giới và xã hội và chúng ta không biết về nhiều thứ, như về sự phát triển của thời thơ ấu mà cho phép trẻ sơ sinh lớn lên thành con người tự chủ hay về media xã hội làm cho chúng ta có thể tiên đoán được hơn và vì thế làm giảm tính không thể tiên đoán được hay các điều kiện làm cho tính di động là có thể, và nếu không có tính xác thực thì là khó để hình dung sự đoàn kết. Không có tính xác thực chúng ta không thể hình thành các nhóm người có các lợi ích chung, không thể có xã hội dân sự hay sự hợp tác nào. Như thế các chính sách cho phép sự sản xuất các dữ kiện, chẳng hạn media địa phương, nghề báo điều tra, sự kiểm tra dữ kiện, và khoa học, là quan trọng cho tự do. Tính xác thực cũng cho phép chúng ta trở thành những người nói tự do (free speaker) mà là quan trọng hơn quyền tự do ngôn luận (nói sự thật khó chịu cho những kẻ nắm quyền lực). Và “quyền lực của những người không có quyền lực” có thể được thực hiện chỉ bằng việc nói sự thật.
- Đoàn kết (solidarity, như với tính tự chủ và tính di động, để là tự do người ta cần sự giúp đỡ của những người khác, người ta cần những điều kiện cho tự do mà bản thân người ta không thể tạo ra. Điều này có nghĩa rằng mặc dù tự do được thực hiện về mặt cá nhân nhưng nó có các khía cạnh tập thể mà người ta cần sự giúp đỡ của những người khác và của các định chế và các chính sách, đồng thời người ta phải tôn trọng tự do của những người khác. Snyder cũng thảo luận sự ngược lại của sự đoàn kết dưới dạng của chủ nghĩa thoát ly [escapism] (các thiên đường thuế, sự bất tử, hay sự trốn chạy khỏi trái đất).
Cuốn sách gồm 7 chương: dẫn nhập, 5 chương cho mỗi hình thức của tự do, và Kết luận. Như đã nói cuốn sách viết cho độc giả Mỹ, phê phán cách hiểu tự do phủ nhận một cách thái quá rất thịnh hành ở Mỹ, và phần kết luận cũng chủ yếu dành cho người Mỹ, biện minh cho sự tồn tại và trách nhiệm của chính phủ. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể suy ra những bài học cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam chúng ta cũng như nhiều gợi mở để thúc đẩy sự nghiên cứu, tranh cãi tiếp về tự do.