Nguyễn Quang A
Bài này bàn sơ về mục tiêu tăng trưởng trong 20 năm tới, vài tiền lệ lịch sử và tính khả thi cũng như vài bài học cần chú ý.
I Mục tiêu
Năm 2025 tăng trưởng GDP phải trên 8% và các năm 2006-2030 là hai con số. Mục tiêu này được nhắc đi nhắc lại trong thời gian qua. Không thấy các vị nêu chỉ tiêu cụ thể từ 2031 đến 2045 ngoài việc “Nếu không đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong nhiều năm liên tiếp, chúng ta sẽ khó hoàn thành mục tiêu này. Hiện thu nhập bình quân đầu người mới khoảng 5.000 USD, trong khi mục tiêu là đạt 20.000 USD trong vòng 20 năm tới” [1].
Nếu làm được thế cho đến 2030 thì GDP vào năm 2030 sẽ tăng ít nhất 1,61 lần! 2024 GDP/đầu người của Việt Nam [2] ở mức 4.806 USD/đầu người (với GDP 476,39 tỷ USD theo Ngân hàng Thế giới [4], Việt Nam ước tính 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD [3]). Nếu từ 2026 đến 2030 (trong 5 năm Tăng trưởng GDP đạt hai con số, tính toán lấy mức thấp nhất của hai con số là 10%, thì GDP sẽ tăng 1,61 lần tức là lên khoảng 820 tỷ USD và GDP/đầu người sẽ là cỡ 8.000 USD/đầu người. Rồi trong 15 năm (2031-2045) giả như tăng trưởng trung bình đạt 6%/năm GDP sẽ tăng khoảng 2,4 lần lên cỡ 2 ngàn tỷ USD và GDP đầu người sẽ đạt khoảng 20.000 USD/đầu người. Các mục tiêu đó có khả thi? Tôi nghĩ là có thể, nhưng rất rất khó để đạt nếu không có các chính sách đúng đắn và nhất là KHÔNG HẤP TẤP.
- Tiền lệ lịch sử
Hãy xét dữ liệu lịch sử của 2 nước mà chúng ta có thể lấy làm gương để theo: Hàn Quốc, Nhật Bản (2 nước tiềm năng nữa có thể noi theo thì Trung Quốc là nước quá lớn còn Sigapore quá bé nhưng tôi nêu số liệu của cả hai nước này để tham khảo)
Theo kinh nghiệm lịch sử của một số nước có sự tăng trưởng GDP được thế giới thán phục trong thời gian 2 thập kỷ hoăc hơn :
- Hàn Quốc từ 1961 đến 1980 đạt tăng trưởng trung bình 9,45%/năm; 8,63% (từ 1981-2000); và 3,64% từ (2001-2024) [4], như thế đạt 7,24%/năm trong suốt 6 thập kỷ;
- Nhật bản từ 1961 đến 1980 đạt tăng trưởng trung bình 6,97%/năm; nhưng từ 1981 đến 2000 chỉ 2,9%/năm và trong hai thập niên 2001-2024 chỉ đạt trung bình gần 0,5%/năm [4], Nật Bản đạt trung bình 3,46%/năm suốt 6 thập kỷ;
- Trung Quốc đạt trung bình10,06% (từ 1979 đến 1997) và 9,16% (từ 1998 đến 2017); tức là trung bình 9,61% (trong 4 thập kỷ) [4] là kỳ tích tăng trưởng chưa từng có trong lịch sử kinh tế thế giới;
- Singapore từ 1961 đến 1980 đạt tăng trưởng trung bình 9,13%/năm; từ 1981-2000 đạt 7,47%/năm (tức là đạt tăng trưởng trung bình 8,3% suốt 4 thập kỷ) và trong hai thập niên 2001-2024 đạt 4,54% (tức là đạt 6,42%/năm suốt 6 thập kỷ) [4].
- Việt Nam từ 1985-2004 đạt tăng trưởng trung bình 6,53%/năm và từ 2004-2024 đạt 6,23% [4], hay 6,38%/năm suốt 4 thập kỷ
Nếu giả như trong 20 năm tới Việt Nam đạt tăng trưởng trung bình trên 10%/năm trong (2006-2030) và trung bình 6%/năm trong (2031-2045) thì trong hai thập niên này có tăng trưởng trung bình 7%/năm tức là trong suốt 6 thập niên có tăng trưởng trung bình (6,53+6,23+7)/3= 6,59% (tăng trưởng tương ứng trong 6 thập niên của Hàn Quốc là 7,24%, Nhật Bản 3,45% và Singapore 7,05% [3]).
Những tính toán sơ bộ trên cho thấy mục tiêu tăng trưởng hai con số (2026-2030) là khó đạt được liên tục nhưng nếu chỉ đặt ra ở mức có 5 năm tăng trưởng ≥ 10% trong toàn bộ giai đoạn 2026-2045 thì có tiền lệ trong quá khứ [4]. Nói cách khác các mục tiêu như vậy có thể khả thi, nhưng việc đạt được tăng trưởng trung bình cỡ 6,59%/năm trong 6 thập niên là không dễ!
Giả như đạt trung bình 6%/năm trong cả hai thập niên (2026-2045) thì đến năm 2045 GDP tăng 3,2 lần của 2005 tức là tăng trưởng trung bình của Việt Nam trong suốt 6 thập niên cũng vẫn hơn 6%/năm (6,25%/năm) và đó một thành tích hiếm có trong lịch sử kinh tế thế giới, cho nên sự tăng trưởng bền vững, trong dài hạn mới là cốt lõi chứ không phải cố theo mục tiêu hai con số trong 5 năm liền.
Chúng ta đã qua 4 thập kỷ rồi với tăng trưởng bình quân 6,38%/năm một thành tích không tầm thường và trong 20 năm tới nên tập trung duy trì đà tăng trưởng bền vững trên 6%/năm này, còn cố gắng đạt trung bình 7%/năm thì rất tốt, nhưng đừng quá chạy theo tốc độ tăng trưởng!
Cũng cần xem xét một “thập niên đã mất” trước Đổi mới để rút ra bài học và tránh lặp lại những sai lầm chết người. Hình 1 cho thấy tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam trong giai đoạn 1976-2003 mà chúng ta chỉ quan tâm ở dưới đây đến giai đoạn 1976-1985:
Hình 1. Tăng trưởng GDP 1976-2003 của Việt Nam
Nguồn: [5]
Chúng tôi thêm vào 3 mũi tên và lời giả thích chính cho những biến động lớn của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này.
Có thể thấy vài nguyên nhân chính của giai đoạn 1976-1980 là do phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đồng loạt, đánh tư sản ở miền Nam và chính sách đưa dân đi kinh tế mới. Nền kinh tế tư nhân bị triệt hạ, những người có tài làm ăn bị triệt phá và nhiều người bỏ nước ra đi khiến đất nước mất mát lớn về vốn trí tuệ, vốn con người.
Rồi đến cải cách giá lương tiền 1985 có mục tiêu rất tốt song không được cân nhắc kỹ, hấp tấp vội vã đã dẫn đến tăng trưởng GDP sụt giảm kinh khủng, lạm phát 1986 lên trên 700% dưa đất nước đến bờ vực phá sản buộc nhà cầm quyền phải bỏ ngăn sông cấm chợ trả lại một phần quyền tự do kinh doanh cho người dân, vì không “đổi mới” thì chết và tăng trưởng kinh tế bắt đầu khởi sắc, sự sút giảm 1997-1999 là do tác động của khủng hoảng tài chính Á châu (để thấy tình hình thế giới và khu vực ảnh hưởng đến nền kinh tế của chúng ta ra sao.
III. Bài học
Hiện nay 2025 nền kinh tế Việt Nam có độ mở vào loại nhất thế giới, nên những ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu, khu vực và biến động địa chính trị khôn lường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam cho nên không được “đếm cua trong lỗ” từ những tính toán lạc quan. Phải lường trước và cố gắng tận dụng tối đa các điều kiện bên ngoài, biến nguy thành cơ trong những biến động địa chính trị quốc tế (kinh nghiệm của Hà Quốc đối phó với khủng hoảng dầu 1973 là một bài học quý).
Tậm thời chúng ta hãy giả sử tình hình quốc tế thuận lợi và có chính sách đối phó linh hoạt để biến nguy thành cơ trong trường hợp có khủng hoảng quốc tế (một giả thiết rất mong manh!)
Làm thế nào để đạt được mục tiêu rất đáng mong muốn đó? Phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW, phát triển triển khoa học công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, chọn lọc trong tiếp nhận FDI, đào tạo nhân lực, … Chủ trương là rất đúng, rõ.
Vấn đề là biến các chủ trương trên thành các chính sách xã hội-kinh tế cụ thể có cơ sở khoa học và thực tế; thực hiện và điều chỉnh chúng theo sát tình hình để đạt các mục tiêu rất tham vọng nêu trên dù rất khó nhưng có thể khả thi.
Do chúng ta đã đi qua 40 năm đổi mới rồi (với tăng trưởng trung bình 6,39%/năm), phải hết sức cố gắng duy trì được đà tăng trưởng trung bình trên 6%/năm trong 20 năm tới, một việc không dễ. Và theo tôi điều đáng tránh nhất trong 20 năm tới là nóng vội, hấp tấp, độc đoán, mệnh lệnh trong hoạch định và thực thi chính sách! Hãy luôn nhớ rằng TĂNG TRƯỞNG khác với PHÁT TRIỂN và mục tiêu chính là PHÁT TRIỂN chứ không phải TĂNG TRƯỞNG! Để tránh những sai lầm của quá khứ [5] mà lẽ ra với tăng trưởng trung bình 6%/năm trong thập niên trước “đổi mới” thì đến 2045 GDP có thể đạt cỡ 2,6 ngàn tỷ USD và 26.000 USD/đầu người thay cho mức phấn đấu 20.000 USD/đầu người. Nhưng lịch sử không có chữ “giá như” song nhìn lại lịch sử cho phép chúng ta những bài học cho hiện tại và tương lai.
Phải có thảo luận, tranh luận, cân nhắc, điều chỉnh nhanh nhạy (với những thay đổi trong nước, khu vực và thế giới) và phải có thông tin đủ cho nhân dân và các chuyên gia tranh cãi trên tinh thần xây dựng để tạo đồng thuận xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu đó! Và mối nguy hiểm nhất có thể phá hỏng việc đạt các mục tiêu rất đáng thực hiện này có lẽ chính là sự NÓNG VỘI, HẤP TẤP, VIỆC DÙNG CHỈ THỊ, MỆNH LỆNH trong hoạch định chính sách, thực hiện và uyển chuyển điều chỉnh chúng. Mặt khác tăng trưởng không phải là mục đích mà phát triển mới là mục đích, và theo Amartya Sen, phát triển là tự do.
Về mặt tăng trưởng, Hà Nội cũng không vội được đâu!
Ghi chú
[1] https://danviet.vn/tong-bi-thu-to-lam-muc-tieu-nam-2045-la-nuoc-thu-nhap-cao-va-tam-nhin-thuong-hai-cho-tphcm-tuong-lai-d1326191.html [2] https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_(nominal)_per_capita [3] https://laodong.vn/thoi-su/du-kien-nam-2025-kinh-te-viet-nam-vuot-qua-muc-thu-nhap-trung-binh-thap-1549945.ldo [4] World Bank https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD.ZG/1ff4a498/Popular-Indicators cho tăng trưởng GDP hàng năm vàhttps://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD/1ff4a498/Popular-Indicators cho bản thân GDP
Chọn thời gian từ 1961-2024 (1961 là năm Hàn Quốc, Singapore bắt đầu tăng trưởng nhanh, Nhật Bản trước đó 5-6 năm, từ 1955 nhưng để tiện chúng ta sẽ cũng xem xét Nhật Bản từ 1961 cho đến 2024) và chọn các nước Hàn Quốc (KOR), Nhật Bản (JPN), Việt Nam (VNM) Trung Quốc (CHN), Singapore (SGP), và phân ra từng 2 thập niên một, chúng ta có được bảng sau về tỷ lệ
tăng trưởng GDP (%) của mỗi nước tại mỗi năm tương ứng
|
Tăng trưởng GDP của năm tương ứng trong hai thập kỷ được ghi trong MÃ TÊN NƯỚC (năm bắt đầu-năm cuối); Cột cuối cùng các số in đậm là tăng trưởng trung bình/năm của thập niên đó (%) |
Trung bình |
|
|||||||||||||||||||
KOR (1961-1980) |
6.94 |
3.90 |
9.02 |
9.47 |
7.32 |
11.99 |
9.08 |
13.17 |
14.56 |
10.05 |
10.55 |
7.21 |
14.90 |
9.51 |
7.84 |
13.22 |
12.34 |
10.95 |
8.67 |
(1.65) |
9.45 |
|
KOR (1981-2000) |
7.25 |
8.34 |
13.38 |
10.55 |
7.84 |
11.33 |
12.72 |
11.99 |
7.07 |
9.88 |
10.78 |
6.20 |
6.88 |
9.27 |
9.61 |
7.89 |
6.17 |
(5.13) |
11.47 |
9.06 |
8.63 |
|
KOR (2001-2020) |
4.85 |
7.73 |
3.15 |
5.20 |
4.31 |
5.26 |
5.80 |
3.01 |
0.79 |
6.80 |
3.69 |
2.40 |
3.16 |
3.20 |
2.81 |
2.95 |
3.16 |
2.91 |
2.24 |
(0.71) |
3.64 |
|
JPN(1961-1980) |
12.04 |
8.91 |
8.47 |
11.68 |
5.82 |
10.64 |
11.08 |
12.88 |
12.48 |
0.40 |
4.70 |
8.41 |
8.03 |
(1.23) |
3.09 |
3.97 |
4.39 |
5.27 |
5.48 |
2.82 |
6.97 |
|
JPN (1981-2000) |
4.26 |
3.28 |
3.63 |
4.41 |
5.16 |
3.29 |
4.65 |
6.66 |
4.93 |
4.84 |
3.52 |
0.90 |
(0.46) |
1.08 |
2.63 |
3.13 |
0.98 |
(1.27) |
(0.33) |
2.76 |
2.90 |
|
JPN (2001-2020) |
0.39 |
0.04 |
1.54 |
2.19 |
1.80 |
1.37 |
1.48 |
(1.22) |
(5.69) |
4.10 |
0.02 |
1.37 |
2.01 |
0.30 |
1.56 |
0.75 |
1.68 |
0.64 |
(0.40) |
(4.17) |
0.49 |
|
VNM(1985-2004) |
3.81 |
2.79 |
3.58 |
5.14 |
7.36 |
5.10 |
5.96 |
8.65 |
8.07 |
8.84 |
9.54 |
9.34 |
8.15 |
5.76 |
4.77 |
6.79 |
6.19 |
6.32 |
6.90 |
7.54 |
6.53 |
|
VNM(2005-2024) |
7.55 |
6.98 |
7.13 |
5.66 |
5.40 |
6.42 |
6.41 |
5.50 |
5.55 |
6.42 |
6.99 |
6.69 |
6.94 |
7.47 |
7.36 |
2.87 |
2.55 |
8.54 |
5.07 |
7.09 |
6.23 |
|
CHN (1978-1997) |
11.33 |
7.59 |
7.83 |
5.11 |
9.06 |
10.73 |
15.23 |
13.44 |
8.94 |
11.63 |
11.22 |
4.21 |
3.94 |
9.36 |
14.30 |
13.93 |
13.07 |
11.03 |
9.98 |
9.29 |
10.06 |
|
CHN (1998-2017) |
7.92 |
7.74 |
8.59 |
8.31 |
9.24 |
10.12 |
10.13 |
11.46 |
12.67 |
14.15 |
9.67 |
9.40 |
10.60 |
9.46 |
7.86 |
7.78 |
7.46 |
6.98 |
6.78 |
6.89 |
9.16 |
|
SGP (1961-1980) |
8.14 |
7.55 |
10.04 |
(3.10) |
7.83 |
10.18 |
12.51 |
13.53 |
13.83 |
13.94 |
12.41 |
13.32 |
10.60 |
6.12 |
3.99 |
7.44 |
6.85 |
7.78 |
9.55 |
10.11 |
9.13 |
|
SGP (1981-2000) |
10.82 |
7.10 |
8.55 |
8.79 |
(0.62) |
1.34 |
10.80 |
11.26 |
10.16 |
9.82 |
6.69 |
6.64 |
11.46 |
11.10 |
7.18 |
7.47 |
8.32 |
(2.19) |
5.72 |
9.04 |
7.47 |
|
SGP (2001-2020) |
(1.07) |
3.92 |
4.55 |
9.94 |
7.37 |
9.01 |
9.02 |
1.86 |
0.13 |
14.52 |
6.21 |
4.44 |
4.82 |
3.94 |
2.98 |
3.75 |
4.48 |
3.45 |
1.31 |
(3.81) |
4.54 |
Có thể thấy Việt Nam và Trung Quốc có dữ liệu chưa đủ 6 thập kỷ, 3 nước còn lại có dữ liệu cho suốt 3 thập kỷ.
Hàn Quốc trong hai thập niên (1961-1980) có 8 năm tăng trưởng ≥ 10% (cao nhất 14,9% vào năm 1973) trong hai thập niên tiếp (1981-2000) có 7 năm tăng trưởng ≥ 10% và trong hai thập niên (2001-2024) tăng trưởng trưởng chậm lại hẳn (cao nhất chỉ là 7,73% và trung bình chỉ là 3,64% trong 20 năm này (tổng cộng có 12 năm tăng trưởng ≥ 10% trong 60 năm). Tăng trưởng trung bình suốt 6 thập niên là
Nhật Bản trong 20 năm (1961-1980) chỉ có 6 năm tăng trưởng ≥ 10% (cao nhất 12,88% vào năm 1968) và trong 40 năm tiếp theo tăng trưởng khá trì trệ.
Trung quốc trong hai thập kỷ (1978-1997) có 10 năm có tăng trưởng ≥ 10% (cao nhất là 14,3% vào năm 1992) và trong hai thập kỷ (1998-2017) Trung quốc có 6 năm tăng trưởng ≥ 10% và từ 2018 đến 2024 tăng trưởng giảm hẳn (cao nhất 8,57% vào năm 2021 và trong 7 năm này chỉ đạt trung bình 5,32% thấp hơn rất nhiều so với 4 thập niên trước). Cũng nên nhớ số liệu thống kê của Trung quốc không đáng tin cậy bằng của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
Singapore trong hai thập niên (1961-1980) có 9 năm với tăng trưởng ≥ 10% (cao nhất 14,94% trong năm 1970), sang thập niên (1981-2000) có 6 năm tăng trưởng ≥ 10%.
Tăng trưởng trung bình trong hai thập niên (2D) tương ứng (2D1, 2D2, 2D3) của các nước nêu trên có thể được minh họa trong hình sau.
Cũng có thể thấy giai đoạn tăng trưởng đỉnh cao của Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore (1965-1973) trùng với thời kỳ quân đội Mỹ có mặt tại Việt Nam. Các giai đoạn chậm gắn với khủng hoảng dầu (1973) hoặc khủng hoảng tài chính (Á châu 1997 hoặc toàn cầu 2008). Nói cách khác tình hình địa chính trị và tình hình kinh tế thế giới, khu vực có thể có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của từng nước. Với nền kinh tế mở vào loại nhất thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng đã (và sẽ) bị ảnh hưởng và chính sách khôn khéo của Hàn Quốc để vượt qua các cuộc khủng hoảng như vậy là bài học đáng quý mà chúng ta có thể học.
[5] Pham Quang Ngoc, Bui Trinh, Nguyen Dúc Thanh, Economic Performance of Vietnam, 1976-2000: New Evidence from Input-Output Model, DEPCEN Working Paper Series No 2007/13.Theo nghiên cứu này tăng trưởng GDP (lấy mức 1976=100) và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể được thấy như Hình 1 trong văn bản chính (Hình 1 của [5]):
Có thể thấy hệ quả lên tăng trưởng kinh tế từ 1976 đến 1980 (năm tăng trưởng âm gần 3%) của các chính sách hợp tác hóa nông nghiệp hàng loạt ở miền Nam với Nghị quyết TW số 24 ngày 24-9-1975 về xóa bỏ tàn dư kiến và hàng loạt nghị quyết khác cho HTX đến 1978; đánh tư sản trong nhiều đợt từ 1975 đến 1979 (bắt đầu nạn thuyền nhaanb kéo theo mất mát người tài, vốn xã hội vô cùng quý giá) cùng với điều kiện địa chính trị khác (viện trợ Liên Xô giảm, chiến tranh với Khơ me đỏ, Trung quốc,..); rồi đến cải cách giá lương tiền 1985 (lạm phát 1986 gần 800%, Hình 3 của [5]); rồi đến khủng hoảng tài chính Á châu 1997-1998. Giả như không có những sai lầm đó và thập niên 1976-1985 có được nức tăng trưởng cỡ 5%/năm thì GDP lẽ ra đã tăng 1,63 lần và với mức xuất phát trước đổi mới đó thì theo [4] lẽ ra GDP 2025 là cỡ 800 tỷ USD (8.000 USD/đầu người thay cho 5.000 USD/đầu người). Và với xuất phát 8 ngàn này thì sau hai thập niên nữa (đến 2045) nếu đạt tăng trưởng trung bình 6%/năm thì GDP sẽ là cỡ 2,6 ngàn tỷ USD (cỡ 26.000 USD/dầu người) chứ không phải như mục tiêu 20.000USSD/đầu người.
Vấn đề là tăng trưởng bền vững trong thời gian dài chứ không phải cố đạt hai con số (≥10%/năm; tất nhiên nếu đạt thì tốt nhưng rất có thể với nhiều rủi ro).
Hãy bỏ qua điều giả như ở trên và quay lại thực tế 2025. GDP đạt cỡ 510 tỷ USD và 5.000 USD/đầu người nếu trong 20 năm tới có thể duy trì được mức tăng trưởng trung bình 6%/năm (tức là thấp hơn mức trung bình của 4 thập niên qua, cũng như trung bình của hai thập niên 2001-2025 phù hợp với xu hướng chung (xem Hình trong ghi chú [4] ở trên) thì GDP danh nghĩa tăng lên 3,2 lần tức là cỡ 1.630 tỷ USD với GDP/đầu người cỡ 16.000 USD/đầu người. Và thêm 5 năm nữa, tức là 2050 sẽ có GDP cỡ 2,2 ngàn tỷ USD và 22.000 USD/đầu người. Vấn để là có duy trì được sự tăng trưởng bền vững với mức trung bình 6%/năm hay không. Nếu làm được thì Việt Nam trong 65 năm có mức tăng trưởng kinh tế hơn 6%/năm và đấy mới thực sự là phép màu! Tại sao lại phải gắn với 2030 và 2045? Rõ ràng là tâm lý chạy theo “thành tích’ còn quá nặng. Vấn đề không phải là vội vã, hấp tấp, làm theo kiểu phong trào “250 công trình chiến lược đồng loạt khởi công, khánh thành mừng 80 năm quốc khánh”. Có ai tính đến những sự lãng phí, chất lượng công trình, tính hợp với nhu cầu thực tiễn và lâu dài, thậm chí tham nhũng của phong trào đồng loạt như vậy (dự án sân bay Long Thành đang sờ sờ ra đó). Rồi yêu cầu Ngân hàng nhà nước bỏ trần tín dụng, v.v. Có ai thảo luận thấu đáo về hệ quả nợ xấu hay khả năng đổ vỡ tín dụng, thị trường bất động sản, v.v. trong tương lai?